Quặng sắt vượt biên: Mối lo có thực

Vận chuyển quặng sắt đòi hỏi phương tiện cơ giới hóa, theo đường bộ, đường sông hoặc đường biển. Vậy thì những ai đang dọn đường cho voi chui lọt lỗ kim?

26/11/2014 14:34

Vận chuyển quặng sắt đòi hỏi phương tiện cơ giới hóa, theo đường bộ, đường sông hoặc đường biển. Vậy thì những ai đang dọn đường cho voi chui lọt lỗ kim?

LTS: Trả lời chất vấn ở QH giữa năm, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng cho biết, thời gian tới sẽ chấm dứt tình trạng khai thác, chế biến khoán sản thô, đặc biệt sẽ dừng khai thác đối với khoáng sản vàng. Vậy nhưng cần giải quyết bài toán này như thế nào? Mới đây, Tuần Việt Nam đã nhận được loạt bài viết của tác giả Thượng Tùng, xin giới thiệu để bạn đọc cùng tranh luận.

Việt Nam vốn dẫn đầu thế giới về thuế suất xuất khẩu quặng sắt sau khi Bộ Tài chính nâng thuế suất từ 30% lên 40% từ đầu tháng 7/2011.

Gần nửa năm sau, Chỉ thị 02 về việc tăng cường quản lý các hoạt động xuất khẩu khoáng sản, trong đó đưa ra chủ trương “dừng hoàn toàn việc xuất khẩu quặng sắt”, vô hình trung đã làm cho việc nâng thuế suất lên 40% không còn ý nghĩa.

Nhìn ra thế giới, nhiều nước từ lâu đã bỏ sắc thuế này. Ấn Độ là quốc gia hiếm hoi tăng thuế xuất khẩu quặng sắt nhưng mức thuế suất vẫn thấp hơn nhiều so với Việt Nam.

Thậm chí, theo ông Đỗ Thiên Anh Tuấn - Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, thuế suất cao đang tạo động cơ xuất lậu và làm lợi cho một số đối tượng nhưng quan trọng hơn chính sách này đang vô hình trung hỗ trợ cho ngành công nghiệp thép Trung Quốc. Đấy là chưa kể cơ hội trục lợi cho một số nhóm lợi ích bất chính, từ doanh nghiệp sử dụng thép làm nguyên liệu đầu vào cho đến cơ quan quản lý tài nguyên và xuất nhập khẩu. Những mỏ quặng trữ lượng thấp, phân tán là miếng bánh dễ dàng bị xâu xé, gây ô nhiễm môi trường, phá vỡ quy hoạch ngành thép, và làm tổn hại đến môi trường cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp ngành thép.

Nếu thực tâm muốn điều tiết sản lượng, thuế tài nguyên, mức 12%, mới là đối tượng cần điều chỉnh tăng đi kèm với biện pháp siết chặt công tác quản lý tài nguyên quặng sắt, theo ông Tuấn. Những bất cập từ chính sách di hại vào thực tiễn. Quặng sắt vẫn lừng lững vượt biên.

Có khác biệt đáng kể cả về lượng và giá quặng sắt Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc trong năm trong năm 2013 khi đối chiếu số liệu do hải quan hai nước công bố (xem bảng 1). Hệ quả là thất thu ngân sách gần 4.000 tỉ đồng (xem bảng 2), gồm thuế xuất khẩu, thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường và phí bảo trì đường bộ.
Quặng sắt, Thượng Tùng, Khoáng sản

Báo Hải quan khi dẫn nguồn tin từ Bộ Công thương cho hay tổng công suất thiết kế các mỏ sắt đã được khai thác trên địa bàn cả nước khoảng 4,5 triệu tấn/năm, vượt xa lượng cầu trong nước. Con số này gần đúng bằng lượng quặng Trung Quốc nhập khẩu từ Việt Nam cũng trong năm này. Vậy những nhà máy sử dụng công nghệ lò cao (luyện thép từ quặng sắt) lấy nguyên liệu từ đâu để sản xuất? Chỉ tính riêng Công ty cổ phần tập đoàn Hòa Phát đã tiêu thụ 1,6 triệu tấn quặng sắt trong năm 2013. Thêm nữa, sau khi Chỉ thị 02 có hiệu lực, giá quặng trong nước rẻ hơn quặng nhập khẩu. Phải chăng tổng công suất thiết kế các mỏ sắt năm 2013 không dừng lại ở con số 4,5 triệu tấn như tính toán của Bộ Công thương?

Thực tế, các cơ quan quản lý Nhà nước gặp không ít khó khăn trong việc kiểm soát sản lượng từng mỏ. Một báo cáo của Bộ Tài Nguyên và Môi trường cho hay tính đến tháng 5/2013, gần 90% trong tổng số số 4.782 giấy phép khai thác khoáng sản còn hiệu lực do chính quyền cấp tỉnh cấp phép. Một chuyên gia kinh tế nhận xét có những mỏ lớn, đáng ra thuộc thẩm quyền trung ương thì lại bị chia nhỏ để địa phương cấp phép.

Năm 2013, cả nước tồn kho khoảng 3 triệu tấn quặng sắt. Nhiều mỏ kêu không tìm được đầu ra trong nước. Đây là cơ sở để Bộ Công thương đề xuất "giải pháp tình thế" với Chính phủ, cho phép xuất khẩu 1,9 triệu tấn. Phần còn lại phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước. Dù dư cung nhưng thực tế là không phải ai cũng có thể mua quặng trực tiếp từ mỏ, nhất là những doanh nghiệp đòi hỏi minh bạch hóa đơn chứng từ.

Ngoài nghi vấn trốn thuế, việc không xuất hóa đơn còn giúp chủ mỏ tránh bạch hóa công suất khai thác. Theo Bộ Công thương, trong vòng 12 năm qua, mỗi năm ngân sách chỉ dành 180 tỉ đồng cho hoạt động điều tra cơ bản khoáng sản.

Thông tin từ Cục kiểm soát hoạt động khoáng sản (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết chưa đến phân nửa tổ chức và cá nhân khai thác khoáng sản báo cáo định kỳ, chưa kể thông tin báo cáo chưa đầy đủ. Sản lượng khai thác lại do doanh nghiệp tự khai, tự chịu trách nhiệm khi thực hiện nghĩa vụ thuế, phí đối với Nhà nước.

Sự vênh lệch đáng kể về giá và lượng quặng sắt xuất khẩu ghi nhận bởi hải quan Việt Nam và hải quan nước nhập khẩu là Trung Quốc không phải câu chuyện mới, đã có nhiều tiền lệ, gần nhất là hai năm 2011 và 2012. Quặng sắt không phải "cây kim sợi chỉ" mà giắt trong bọc, dễ dàng qua mặt cơ quan chức năng. Vận chuyển quặng sắt đòi hỏi phương tiện cơ giới hóa, theo đường bộ, đường sông hoặc đường biển. Vậy thì ai, những ai đang dọn đường cho voi chui lọt lỗ kim?

Quặng sắt, Thượng Tùng, Khoáng sản

Chỉ vận hành 50% công suất

Trong bối cảnh nền kinh tế gặp khó khăn, khoảng 70% doanh nghiệp trong ngành báo lỗ hoặc giảm lãi, thì một số đơn vị vẫn tiếp tục bứt phá, một phần do chọn lựa công nghệ.Ví dụ, Hòa Phát với công nghệ đi từ quặng sắt cho đến sản phẩm cuối cùng theo công nghệ lò cao. Khác với công nghệ lò hồ quang (đầu vào là thép phế liệu).

DN này cũng chính là đơn vị mà hồi giữa năm nay từng gửi công văn đến Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công thương và VSA "đề nghị cấm xuất khẩu quặng sắt để dành nguyên liệu cho các dự án lò cao trong nước".

Quặng sắt, Thương tùng, khoáng sản, xuất lậu
Ảnh minh họa: dantri

Khi đó, 13 doanh nghiệp ứng dụng công nghệ lò hồ quang đồng loạt ký kiến nghị khẩn thiết gửi Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) đề nghị xem xét lại chính sách cấm xuất khẩu quặng sắt.

Theo "nhóm 13", hiệu lực chính sách khiến giá quặng sắt giảm gần phân nửa so với giá thế giới, giúp HPG có lợi thế cạnh tranh.

Những diễn biến trên thị trường cho thấy nhiều doanh nghiệp tỏ ra hụt hơi trong cuộc đua xuống giá. Pomina, từng nhiều năm giữ vị trí quán quân thị phần, cũng chấp nhận buông sau gần một năm cầm cự. Ông Chu Đức Khải, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) nói phần lớn doanh nghiệp trong ngành chỉ vận hành từ 40% đến 60% công suất.

Hiện nay cả nước vẫn còn 13 doanh nghiệp khác sử dụng công nghệ lò cao nhưng phần lớn quy mô nhỏ, dao động quanh mức 200 ngàn tấn/năm.

Đáng kể có Nhà máy gang thép Thái Nguyên (Tisco) và đặc biệt là Nhà máy gang thép Việt Trung (VTM), mới khánh thành hồi tháng 9 vừa qua. Phía Việt Nam chiếm 55% vốn góp trong tổng đầu tư 337,52 triệu USD. Nguồn quặng lấy từ mỏ Quý Sa, trữ lượng 120 triệu tấn. Được biết, than cốc, phụ liệu không thể thiếu đối với công nghệ lò cao, do đối tác Trung Quốc cung cấp theo hình thức đối lưu. Phương tiện hoán đổi là quặng sắt. Lợi ích của hình thức này là không phát thải ô nhiễm trong quá trình luyện cốc. VTM hiện là đơn vị sử dụng lò cao có dung tích lớn nhất hiện nay, 550 khối, công suất giai đoạn 1 là 500 ngàn tấn thép/năm.

Có tận dụng được lợi thế

Một trong những mục tiêu của chính sách cấm xuất khẩu quặng là nhằm bảo vệ tài nguyên phục vụ sản xuất trong nước. Nhưng một câu hỏi đặt ra là liệu những doanh nghiệp trong nước nói chung và ngành thép nói riêng có tận dụng được ưu thế này để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế?

Bất lợi đáng kể của Việt Nam là ở cạnh người láng giềng khổng lồ.

Năm 2013, Trung Quốc sản xuất 780 triệu tấn thép, xuất khẩu 60 triệu tấn, trong đó khoảng 1/4 đổ vào thị trường ASEAN.

Nhìn lại Việt Nam, cũng trong năm này, thị trường hấp thu khoảng 5 triệu tấn thép xây dựng, tức là chưa đạt phân nửa công suất thiết kế của toàn ngành (11,3 triệu tấn). Hiện Trung Quốc tồn kho trên 160 triệu tấn. Nếu họ xả hàng thì ngành thép sẽ "khốn khổ" - chữ của ông Khải.

Thời gian gần đây rộ lên thông tin chính phủ Trung Quốc loại bỏ lò dung tích dưới 1.000 khối. Dung tích càng lớn, càng tiết kiệm nhiên liệu. Phần lớn các doanh nghiệp trong nước đều nhập khẩu công nghệ lò cao từ Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng chưa phải là quốc gia có công nghệ lò cao tiên tiến nhất thế giới. Bằng chứng là họ từng nhập khẩu những lò 3,4 ngàn khối từ Nhật Bản, theo ông Khải.

Nhập khẩu công nghệ đã bị đối thủ thải loại, liệu doanh nghiệp lò cao còn bao nhiêu dư địa để cạnh tranh sòng phẳng?

Trong khi dư luận bày tỏ quan ngại về dự án Formosa thì ông Khải lại tỏ ra lo lắng tương lai ngành thép khi đề cập đến vòng đàm phán thành lập khu vực mậu dịch tự do giữa Việt Nam và Liên minh Hải quan Nga - Belarus - Kazakhstan.

Nga sở hữu hệ thống lò cao lên đến 5 ngàn khối, bắt đầu vận hành từ nửa đầu thập niên 1990. Để sản xuất một tấn thép, các nhà máy của Nga cần 150kWh, mức tiêu hao điện năng chỉ bằng 1/3 so với Việt Nam.

Đại diện VSA bày tỏ mong muốn những sản phẩm thép trong nước sản xuất được Chính phủ bảo hộ thêm 5 - 10 năm để giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh. Muốn hay không, ngành thép vẫn phải cạnh tranh với phần còn lại của thế giới. Năng suất quyết định tồn vong. Bằng không, việc giữ lại tài nguyên phục vụ nền sản xuất trong nước, xem ra cũng chỉ là nỗ lực trong tuyệt vọng.

Liệu, đây có phải là câu chuyện riêng của ngành thép?