Đẩy mạnh CPH doanh nghiệp Nhà nước

23/12/2014 06:16

(ĐCSVN) - Là một trong những giải pháp đổi mới doanh nghiệp nhà nước, nhìn chung, tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng vẫn còn nhiều mặt vướng mắc, hạn chế cần phải giải quyết.
Thực tế cho thấy, những đổi mới về cơ chế, chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã và đang được triển khai và phát huy tác dụng, tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước từng bước được đẩy mạnh. Về cơ bản, đa số doanh nghiệp nhà nước sau khi tiến hành cổ phần hoá có kết quả hoạt động tài chính tốt hơn, lợi nhuận sau thuế tăng, năng suất lao động lao động, tiền lương bình quân của người lao động tăng đáng kể. Nhìn chung, các doanh nghiệp nhà nước đã giảm mạnh về số lượng, và cải thiện đáng kể về quy mô vốn. Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đã và đang chuyển đổi theo hướng chỉ nắm giữ những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu.
Đã tạo được đà nhưng còn chậm
Cần khẳng định, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã tạo được đà. Năm 2013, cổ phần hóa được 74 doanh nghiệp nhà nước, tăng gấp 3 lần số lượng doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa trong hai năm 2011 và 2012 và vẫn tiếp tục duy trì đà này trong năm 2014. Theo Báo cáo về việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn do Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trình bày sáng ngày 17/11, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XIII, trong 10 tháng năm 2014, đã tiến hành tái cơ cấu 119 doanh, trong đó cổ phần hóa được 100 doanh nghiệp. Còn theo số liệu của Bộ Tài chính, riêng tháng 10 thì cổ phần hóa được 4 doanh nghiệp. Nhìn chung, các doanh nghiệp được cổ phần hóa hầu hết có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng, kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực, và đã có nhiều doanh nghiệp hoàn thành phát hành cổ phiếu lần đầu (IPO) trên các thị trường chứng khoán. Gần đây, tiến trình cổ phần hóa đã có sự tham gia ngày càng tăng của các doanh nghiệp nhà nước lớn như VietnamAirlines, PetroVietnam, Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex)…
Ảnh minh họa (Nguồn: fica.vn)

Kế hoạch doanh nghiệp nhà nước thoái vốn khỏi các lĩnh vực rủi ro ngoài ngành cũng đã đạt được những kết quả bước đầu. Việc thực hiện quy định các doanh nghiệp nhà nước ngoài lĩnh vực ngân hàng thoái vốn hoàn toàn khỏi những lĩnh vực rủi ro ngoài ngành vào năm 2015 đã đạt được một số kết quả nhất định. Tính đến cuối tháng 9/2014, các doanh nghiệp nhà nước đã thoái được 5 nghìn tỷ đồng vốn Nhà nước đầu tư ngoài ngành, đạt gần 21% kế hoạch.

Khung pháp lý cho cải cách doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được củng cố, như Nghị quyết số Nghị quyết số 15/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 6/3/2014 về một số giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp đã đề cập tới kế hoạch hành động toàn diện để đẩy mạnh thoái vốn doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, hai đạo luật quan trọng có liên quan gồm Luật Quản lý và sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) cũng đã được thông qua tại kỳ họp Quốc hội diễn ra vào tháng 11/2014. Luật Quản lý và sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh được kỳ vọng sẽ nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong đầu tư và quản lý vốn Nhà nước vào hoạt động sản xuất, kinh doanh và mức độ giám sát hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước của Quốc hội và các bên liên quan. Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) khuyến khích tinh thần làm chủ doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh minh bạch hơn và tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả loại hình doanh nghiệp.

Để đẩy mạnh tăng cường tính minh bạch và công khai kết quả hoạt động kinh doanh và tài chính của các doanh nghiệp, Chính phủ tiếp tục yêu cầu các doanh nghiệp báo cáo chi tiết một năm 2 lần (4 lần đối với các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn) cho các bộ, ngành chủ quản về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. Hàng năm, Bộ Tài chính cũng phải báo cáo cho Quốc hội tình hình sản xuất, kinh doanh chung của tất cả các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước cũng được yêu cầu công khai thông tin về hoạt động kinh doanh, kết quả tài chính và quản trị. Các doanh nghiệp nhà nước cũng cần phải công khai thêm các thông tin như chiến lược và kế hoạch phát triển dài hạn cũng như thường xuyên cập nhật các thông tin về quản trị doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, đã có những tiến bộ bước đầu trong việc doanh nghiệp nhà nước thực hiện báo cáo cho bộ, ngành chủ quản và Bộ Tài chính theo yêu cầu.
Tuy vậy, nhìn chung tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn chậm. Mục tiêu cổ phần hóa 200 doanh nghiệp nhà nước trong năm 2014 và 232 doanh nghiệp trong năm 2015 dự báo sẽ rất khó khăn trong bối cảnh kinh tế tuy đã có bước phục hồi, nhưng tốc độ còn chậm và mức độ phức tạp của các doanh nghiệp nhà nước thuộc diện phải cổ phần hóa. Trong 10 tháng của năm 2014, cũng mới chỉ sắp xếp được 119 doanh nghiệp nhà nước. Việc thoái vốn khỏi các lĩnh vực rủi ro ngoài ngành chậm hơn so với dự kiến. Tính đến cuối tháng 9/2014, hoạt động này cũng chỉ đạt gần 21% kế hoạch. Nhìn chung, theo kế hoạch sắp xếp, cổ phần hóa đã được duyệt trong giai đoạn 2014 - 2015 cả nước sẽ thực hiện cổ phần hóa 432 doanh nghiệp thì mới có 348 doanh nghiệp thành lập Ban chỉ đạo, 247 doanh nghiệp đang xác định giá trị doanh nghiệp, 123 doanh nghiệp công bố giá trị…
Ra sức thúc đẩy cổ phần hoá
Để đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, cần kết hợp tuyên truyền, thuyết phục với áp dụng biện pháp hành chính đối với những doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hoá. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tăng cường tuyên truyền phổ biến ý nghĩa chủ trương cổ phần hoá nhằm tiếp tục củng cố niềm tin của người lao động cũng như các nhà quản lý doanh nghiệp vào con đường cổ phần hoá, đồng thời giới thiệu các kinh nghiệm của các điển hình tiên tiến về công tác cổ phần hoá. Bên cạnh đó, cần mạnh dạn thực hiện một số biện pháp hành chính như đối với doanh nghiệp nhà nước thuộc diện cổ phần hoá mà lãnh đạo cố tình trì hoãn không thực hiện thì kiên quyết thay thế, cách chức giám đốc doanh nghiệp hoặc cho giải thể doanh nghiệp. Đây là cách làm mà thời gian qua một số địa phương đã thực hiện. Biện pháp này tuy tương đối mạnh tay, song lại khá hiệu quả. Vì vậy, cần được nhân rộng ra tất cả các ngành, các địa phương nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về tốc độ cổ phần hoá.
Cần tiếp tục làm cho mọi người hiểu Đảng ta đang tiếp tục quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, chuyển sang giai đoạn nâng cao về chất trên các mặt như: từ cổ phần hoá chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ làm ăn thua lỗ sang cổ phần hoá cả những doanh nghiệp lớn, các tổng công ty, các doanh nghiệp làm ăn có lãi; từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong một số lĩnh vực rất hạn chế sang cổ phần hoá các doanh nghiệp ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hoá; từ hình thức cổ phần hoá nội bộ là chính sang bán cổ phiếu ra bên ngoài, kể cả cho nhà đầu tư nước ngoài.
Tạo lập đồng bộ các loại thị trường. Cùng với việc phát triển mạnh thị trường tư liệu sản xuất, thị trường hàng tiêu dùng, nhất là đẩy mạnh Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, cần coi trọng việc phát triển mạnh mẽ thị trường các loại dịch vụ cho sản xuất; thị trường công nghệ, thông tin, tư vấn pháp lý, tư vấn tiếp thị, tài chính, ngân hàng…, phát triển thị trường tiền tệ. Đặc biệt, cần chú trọng hơn nữa việc phát triển thị trường chứng khoán. Nhà nước cần tạo mọi điều kiện để hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán ngày càng phát triển thuận lợi. Đồng thời, trong tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, cần có biện pháp thúc đẩy cổ phần hoá những doanh nghiệp nhà nước có quy mô đủ lớn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này hoạt động tốt để có thể tham gia một cách có hiệu quả vào thị trường chứng khoán. Tiếp tục hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô, điểm mấu chốt là tăng tiềm lực và lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, hoàn thiện chính sách tài chính - tiền tệ và hoạt động ngân hàng, ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và thiểu phát. Nâng cao năng lực quản lý kinh tế thị trường của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương.
Để phát triển thị trường chứng khoán, cần có môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và lành mạnh, duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP. Bên cạnh đó, cần tạo được môi trường kinh doanh bình đẳng, khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư, xây dựng và áp dụng các quy tắc về quản trị công ty theo thông lệ quốc tế, không chỉ đối với công ty niêm yết, mà cho tất cả các loại hình doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, cần xây dựng hạ tầng vật chất - kỹ thuật cho thị trường chứng khoán, đặc biệt là hệ thống giao dịch, lưu ký, thanh toán và công bố thông tin; áp dụng công nghệ tin học và thông tin hiện đại cho thị trường chứng khoán.
Tiếp tục cải thiện môi trường hoạt động của doanh nghiệp cổ phần. Xoá bỏ sự phân biệt trong các chính sách và thực hiện các chính sách giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp sau khi chuyển đổi về tín dụng, đầu tư, đất đai, xuất nhập cảnh,… Quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc tiếp tục cung cấp thông tin, phổ biến chế độ chính sách cho doanh nghiệp sau chuyển đổi. Giao rõ trách nhiệm hơn cho các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến quy trình cổ phần hoá để kịp thời giải đáp các vướng mắc của doanh nghiệp trong và sau cổ phần hoá.
Kiện toàn bộ máy quản lý, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ quản lý doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu quản trị trong cơ chế thị trường. Bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đại diện phần vốn nhà nước đủ phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn để làm tốt vai trò đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp. Áp dụng tổ chức lao động khoa học trong sản xuất, kinh doanh, sắp xếp lại, nâng cao chất lượng lao động trong doanh nghiệp. Tích cực triển khai nghiên cứu ứng dụng, đầu tư cho đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, dịch vụ, từng bước nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm, dịch vụ, đáp ứng tiêu chuẩn môi trường. Thay thế dần các thiết bị, công nghệ tiêu tốn nhiều năng lượng, nguyên vật liệu, từng bước loại bỏ sản phẩm không thân thiện với môi trường để tăng cường hiệu quả kinh doanh và phát triển bền vững…/.